I. Tại sao phải có mô hình hành vi khách hàng?
Bất kỳ quyết định marketing thành công nào cũng cần phải hiểu rõ hành vi khách hàng. Nghiên cứu hành vi khách hàng là nghiên cứu các cá nhân, nhóm hoặc tổ chức và quá trình họ lựa chọn, tìm kiếm, mua sắm, sử dụng và vứt bỏ sản phẩm, dịch vụ, trải nghiệm hoặc ý tưởng nhằm thoả mãn nhu cầu và những tác động của quá trình này.
Trong một thế giới dư thừa sản phẩm để có thể thành công một doanh nghiệp phải tìm cách cung cấp những giá trị vượt trội thoả mãn nhu cầu của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu rõ hành vi khách hàng hơn đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp luôn cố gắng định vị thương hiệu sản phẩm mình vị trí phù hợp với nhu cầu, mong muốn của khách hàng.
Mô hình tổng quát hành vi khách hàng trong hình minh hoạ không chứa đủ thông tin chi tiết từng thành phần để dự đoán hành vi cụ thể nhưng nó cho ta một cái nhìn tổng quan về bản chất hành vi khách hàng. Cá nhân phát triển ý niệm bản ngã (quan điểm về chính bản thân họ) và tiếp theo là lối sống (sống thế nào) dựa vào nhiều tác động bên trong (chủ yếu tâm lý và thể chất) và bên ngoài (chủ yếu là xã hội và nhân khẩu học). Ý niệm bản ngã và lối sống sẽ làm phát sinh nhu cầu và mong muốn, trong một vài tình huống phù hợp những nhu cầu và mong muốn đó sẽ làm phát sinh hành vi tiêu dùng dẫn đến quá trình quyết định (nhận thức vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh giá và lựa chọn các phương án, lựa chọn địa điểm mua, quá trình sau khi mua). Hành vi khách hiếm khi đơn giản và có trật tự trước sau, rõ ràng, có quy luật hay chỉ một đường thẳng. Mô hình trên chỉ là một điểm khởi đầu để chúng ta phân tích và suy nghĩ về hành vi khách hàng.
Việc chia các yếu tố ảnh hưởng thành bên trong và bên ngoài như vậy hơi chủ quan ví dụ như việc học hỏi là một hoạt động nhóm bao gồm sự tương tác với hoặc bắt chước người khác vì vậy việc học cũng thuộc yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Sơ đồ bên trên có mũi tên qua lại giữa hai yếu tố ảnh hưởng bên trong và bên ngoài ý nói rằng mỗi yếu tố đều ảnh hưởng với các yếu tố còn lại.
II. Nhân khẩu học
Phân tích thông tin nhân khẩu học là phân tích nghề nghiệp, học vấn, thu nhập, độ tuổi và địa vị xã hội của khách hàng.
Nghề nghiệp là dấu hiệu đầu tiên được đánh giá để xác định đặc điểm cá nhân, nghề nghiệp có tương quan mạnh mẽ với học vấn (thứ định hướng nghề nghiệp ở mức độ nào đó) và thu nhập (thứ có thể xác định theo nghề nghiệp ở mức độ nào đó); Phải nói thêm rằng loại hình công việc và đồng nghiệp mà một người làm cùng theo thời gian sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị, lối sống và mọi mặt trong quá trình tiêu dùng của người đó. Ví dụ người thợ xây dựng có xu hướng dùng nhiều thuốc lá và rượu bia hơn những nhân viên văn phòng, ít truy cập những kênh truyền thông liên quan tới kinh tế, kinh doanh hơn.
Độ tuổi ảnh hưởng tới ý niệm bản ngã và lối sống của cá nhân, độ tuổi sẽ định hình phương tiện truyền thông được sử dụng, nơi mua sắm, cách sử dụng sản phẩm và cách suy nghĩ và cảm nhận về các hoạt động marketing. Ví dụ những người 18-24 tham gia hoạt động trượt ván, bóng đá, sử dụng nhiều nước tăng lực, lướt mạng xã hội nhiều hơn dễ chấp nhận những đổi mới hơn những nhóm tuổi khác; những người từ 25-44 sử dụng nhiều các sản phẩm dịch vụ chăm sóc sắc đẹp. Sẽ không có một khuôn mẫu chung cho một nhóm tuổi nhất định vì mỗi thế hệ sẽ có những trải nghiệm, sự kiện khác nhau sinh ra ý niệm bản ngã và lối sống khác nhau khi trải qua cùng một nhóm tuổi.
Dù thích hay không, hầu hết tất cả mọi người đều bị định cấp, ít nhất là trong mắt người khác, dựa trên một nhóm tiêu chí phức tạp – số tiền kiếm được, công việc mưu sinh, bố mẹ là ai, địa điểm và thời gian theo học, cách nói năng, trang phục, nơi sống và cách họ phản ứng trước vấn đề thường ngày. Các yếu tố kinh tế xã hội đó sẽ giúp xác định địa vị xã hội, nhưng những tầng lớp xã hội đơn thuần không tồn tại trong thế giới hiện đại ngày nay. Thứ tồn tại là một chuỗi các địa vị nối tiếp nhau bắt đầu từ tầng lớp bình dân tiếp theo là tầng lớp lao động, tầng lớp trung lưu và cuối cùng là tầng lớp thượng lưu. Mỗi tầng lớp sẽ có những hành vi đặc trưng (sở thích, mua sắm, sự tiêu dùng, giao tiếp) khác nhau.
III. Nhóm tham khảo
Là một nhóm có những quan điểm và giá trị được các cá nhân khác sử dụng làm cơ sở cho hành vi hiện tại của mình. Trong mỗi tình huống chúng ta luôn có một nhóm tham khảo để định hướng cho hành vi của bản thân ví dụ trong một bữa tiệc dịp tết gia đình là nhóm tham khảo, trong một bữa tiệc ăn mừng thắng lợi hay hoàn thành kì thi bạn bè là nhóm tham khảo; khi lựa chọn trang phục cho bữa tiệc chúng ta thường hay cân nhắc phản ứng của người tham dự bữa tiệc đó.
Nhóm tham khảo có thể chia làm 2 loại dựa vào tiêu chí hấp dẫn đánh giá từ mức âm đến mức dương. Ở mức âm được gọi là nhóm chán ghét cũng có ảnh hưởng đáng kể lên cá nhân như mức dương, ví dụ một người trẻ thường tránh kiểu trang phục dành cho người lớn tuổi. Nhóm ngưỡng mộ có mức hấp dẫn dương tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ lên các cá nhân, chúng ta thường có xu hướng mua những sản phẩm dịch vụ mà mình nghĩ những người chúng ta ngưỡng mộ sử dụng hoặc được họ giới thiệu để thực sự hoặc tượng trưng cho việc trở thành thành viên trong nhóm đó.
Chúng ta làm theo người khác theo nhiều cách khác nhau, có đôi khi ta nhận ra điều đó, đôi khi lại không. Điều này được gọi là ảnh hưởng nhóm gồm ba loại ảnh hưởng: ảnh hưởng truyền tin, ảnh hưởng quy chuẩn, ảnh hưởng gia nhập
1. Ảnh hưởng truyền tin
Xảy ra khi một người sử dụng hành vi và ý kiến của thành viên trong nhóm tham khảo như một nguồn thông tin có ích tiềm năng. Ảnh hưởng này dựa trên sự tương đồng của các thành viên trong nhóm với cá nhân đó và sự thông thái của thành viên đang tạo ra ảnh hưởng. Ví dụ khi đi tập gym bạn nhìn thấy một gymer chuyên nghiệp đang sử dụng thực phẩm bổ sung dinh dưỡng A do đó bạn cũng mua sản phẩm A về dùng thử, việc mua dùng thử này không bị tác động bởi quảng cáo hay hoạt động marketing của doanh nghiệp.
2. Ảnh hưởng quy chuẩn
Xảy ra khi một người thoả mãn kỳ vọng của nhóm để được chấp nhận, tán thưởng hay tránh bị tẩy chay, trừng phạt. Ảnh hưởng quy chuẩn mạnh mẽ nhất khi các cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ hay sản phẩm dễ dàng được chú ý. Một người có thể mua một thương hiệu rượu vang nào đó để giành lấy sự đồng tình từ đồng nghiệp hoặc có thể tránh mặc những bộ quần áo quá khác biệt để tránh bị bạn bè chế giễu hoặc vì muốn hoà đồng và được bạn bè chấp nhận. Ví dụ: một quảng cáo sản phẩm vệ sinh răng miệng nhấn mạnh “Ngay cả bạn bè cũng không nói cho bạn” nếu hơi thở của bạn khó chịu – họ sẽ chỉ lờ bạn đi; Người bạn của Cường nói đùa rằng xe của bạn như vừa đi từ trong rừng ra – Cường đi rửa xe.
3. Ảnh hưởng gia nhập
Cũng được gọi là ảnh hưởng thể hiện giá trị xảy ra khi cá nhân tiếp thu giá trị và tiêu chuẩn của nhóm. Ảnh hưởng này sẽ định hướng hành vi của cá nhân mà không cần sự thừa nhận hay táng thưởng của nhóm tham khảo. Các cá nhân hành động đồng nhất với các giá trị của nhóm vì giá trị của họ và giá trị của nhóm là giống nhau. Ví dụ: qua thời gian, Minh nhận thấy các lãnh đạo doanh nghiệp thành công ăn mặc theo phong cách cổ điển – Minh tin rằng hình ảnh cổ điển phù hợp với nhà lãnh đạo và tự thiết kế cho mình một tủ quần áo toàn trang phục theo phong cách cổ điển.
Để biết sản phẩm của doanh nghiệp có chịu tác động của ảnh hưởng nhóm lên kết quả kinh doanh hay không cần xem xét 2 yếu tố: mức độ cần thiết của sản phẩm và khả năng dễ quan sát. Ví dụ một đôi giày chạy là sản phẩm cần thiết và cũng dễ quan sát nên sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của nhóm tham khảo (Nike bỏ tiền thuê các vận động viên chuyên nghiệp làm đại sứ thương hiệu). Sự thiếu quyết đoán trong quá trình mua sắm càng dễ bị tác động bởi ảnh hưởng của nhóm tham khảo.
Người làm marketing thường định vị sản phẩm sao cho phù hợp với hoạt động nhóm như trong quảng cáo dưới đây.
4. Nhận thức và bản chất nhận thức
Nhận thức là một quá trình bắt đầu khi ta tiếp xúc và chú ý các kích thích từ môi trường bên ngoài sau đó ta hiểu/diễn giải các kích thích đó (gán ý nghĩa cho nó), quyết định hành động dựa trên ý nghĩa được gán hay đưa vào trong bộ nhớ dài hạn. Ví dụ khi một người bạn nhập viện vì lối sống không lành mạnh ta nhận ra bản thân mình cần phải thay đổi và bắt đầu hành động đây là một quá trình nhận thức. Bản chất của nhận thức là quá trình thông tin được ghi nhận, xử lý và ghi nhớ.
Sự tiếp xúc và chú ý có tinh chọn lọc (ta chỉ nghe thấy những gì mình muốn nghe thấy) đôi khi được gọi là sự phòng vệ nhận thức trong một thời đại bị quá tải thông tin như hiện nay. Đây là thách thức của những người làm marketing khi các kích thích marketing đang ngày càng bị khách hàng chọn lọc làm tăng chi phí. Hầu hết sự tiếp xúc kích thích hiện nay đều là tự chọn tìm kiếm thông tin để hoàn thành mục tiêu cá nhân như thoả mãn nhu cầu và mong muốn của bản thân. Tất nhiên con người cũng tiếp xúc với số lượng lớn các kích thích ngẫu nhiên trong các hoạt động hàng ngày ví dụ trong khi lái xe gặp bảng quảng cáo trên các toà nhà hay hình ảnh quảng cáo trên xe buýt mà họ không hề tìm kiếm. Do đó những người làm marketing phải tìm mọi cách để gia tăng sự tiếp xúc của khách hàng với các hoạt động marketing của họ từ những biển quảng cáo 3D động ở những giao lộ cho đến sự xuất hiện trong streaming game, trong các trò chơi trực tuyến (67% nam giới độ tuổi trung bình 26 có xu hướng chơi game nhiều)
5. Sự chú ý
Các yếu tố làm gia tăng sự chú ý bao gồm các đặc tính vật chất của kích thích, yếu tố cá nhân và yếu tố tình huống.
Đặc tính vật chất: kích thước, cường độ, hình ảnh hấp dẫn, màu sắc và chuyển động, ví trí, sự tách biệt, định dạng, sự tương phản và kỳ vọng, sự lôi cuốn, lượng thông tin. Các yếu tố này thuộc sự kiểm soát của người làm marketing.
- Kích thước lớn hơn có khả năng thu hút được nhiều sự chú ý hơn.
- Cường độ (ví dụ âm lượng, độ sáng, độ dài) có thể làm gia tăng sự chú ý, sự lặp lại có liên quan đến cường độ – sự chú ý thường giảm khi tiếp xúc lặp lại đặc biệt là trong khoảng thời gian ngắn (cường độ cao), tuy nhiên sự lặp lại cũng có cái hay gồm 2 thứ. Thứ nhất sự lặp lại làm thay đổi trọng tâm của sự chú ý từ phần này sang phần khác trong một quảng cáo. Đã bao giờ bạn nhận thấy một cái gì đó mới lạ khi đã xem quảng cáo một vài lần chưa? Thứ hai là sự lặp lại làm tăng khả năng ghi nhớ, bạn còn nhớ quảng cáo của hãng Kangaroo về máy lọc nước không?
- Hình ảnh hấp dẫn, con người có xu hướng bị hấp dẫn bởi cái đẹp chẳng hạn như cảnh thiên nhiên hùng vĩ hay những người mẫu. Đó là lý do nhiều người làm marketing sử dụng người mẫu trong các quảng cáo của họ nhưng cũng cần phải cân nhắc là khi khách hàng chú ý tới người mẫu trong quảng cáo họ thường bỏ qua sản phẩm được quảng cáo, cũng có thể khách hàng nhận thấy sản phẩm không phù hợp với mình. Cần phải cân nhắc hình ảnh sao cho phù hợp với tính chất của sản phẩm, thương hiệu và thông điệp truyền tải.
- Màu sắc và chuyển động dễ thu hút sự chú ý hơn. Mỗi mau sắc sẽ mang lại một cảm nhận khác nhau, nhiều nghiên cứu cho thấy màu sáng tạo cảm giác hứng thú và hưng phấn, màu đen tạo cảm giác huyền bí, màu xanh lục và nâu tạo cảm giác tự nhiên. Một quảng cáo có hình ảnh màu và chuyển động thu hút hơn đen trắng và tĩnh.
- Vị trí ý chỉ sự sắp xếp của vật trong không gian và thời gian. Tác động của vị trí phụ thuộc vào phương tiện truyền thông và cách thức khách hàng tương tác với phương tiện đó. Trên web banner dọc thu hút hơn banner ngang do hầu hết thông tin trên web đều được hiển thị theo chiều ngang. Trên truyền hình xác suất một quảng cáo được xem và ghi nhớ giảm theo thứ tự xuất hiện.
- Sự tách biệt tách một tác nhân kích thích ra khỏi các tác nhân kích thích khác. Trong cửa hàng việc sử dụng những gian trưng bày sản phẩm đơn lẻ áp dụng nguyên tắc này. Trong quảng cáo, việc sử dụng “không gian trắng” đặt thông điệp cốt lõi muốn truyền tải trong một khoảng trống cũng được dựa trên nguyên tắc này.
- Định dạng liên quan đến cách thức trình bày thông điệp, trình bày đơn giản dễ hiểu dễ thu hút sự chú ý hơn. Quảng cáo thiếu điểm nhấn hình ảnh rõ ràng hoặc có chuyển động không phù hợp (quá nhanh, chậm, “thất thường) hay âm thanh khó hiểu gây mất tập trung và giảm sự chú ý.
- Sự lôi cuốn, mọi người đều thích câu chuyện, có yếu tố cá nhân để có thể liên hệ với bản thân. Do đó quảng cáo có một câu chuyện để kể sẽ thu hút hơn, cửa hàng được thiết kế theo chủ đề sẽ hấp dẫn hơn. Sự phi lí cũng gia tăng sự chú ý (một câu nói ngược đời, hay một hình ảnh không theo lẽ thường)
- Lượng thông tin, thông tin giúp khách hàng dễ đưa ra quyết định nhưng quá nhiều thông tin sẽ làm giảm sự tập trung vì mỗi thông tin đều cần sự nỗ lực hiểu.
Yếu tố cá nhân của mỗi người ảnh hưởng tới sự chú ý của người đó với các kích thích bên ngoài, là những đặc điểm phân biệt mỗi người bao gồm động cơ và khả năng.
- Động cơ là xu hướng được tạo ra do nhu cầu và sở thích. Ví dụ một nghệ sĩ đàn ghi ta (sở thích) có sự quan tâm đến các loại đàn và những tác phẩm được trình bài hay và những thứ xoay quanh nó do đó anh ta sẽ dễ chú ý tới các kích thích có liên quan, khi đói (nhu cầu) anh ta sẽ chủ động tìm kiếm các quán ăn để thoả mãn nhu cầu.
- Khả năng chính là khả năng mọi người chú ý đến và xử lý thông tin. Khả năng có liên quan đến kiến thức, sự hiểu biết về sản phẩm, thương hiệu và quảng cáo. Một người đam mê sành sỏi âm thanh nổi có nhiều khả năng chú ý đến thông tin chi tiết về sản phẩm hơn một tay mơ. Các chuyên gia chú ý đến thông tin chi tiết nhiều hơn, nhanh hơn và ít bị cản trở bởi sự quá tải thông tin. Sự hiểu biết về thương hiệu sẽ dễ thuyết phục khách hàng hành động theo mục tiêu của người làm marketing.
Yếu tố tình huống là những thứ như áp lực về thời gian, sự lộn xộn trong môi trường xung quanh (trong cửa hàng có quá nhiều biển quảng cáo, cửa hàng đông đúc), sự gắn kết với chương trình đang xem sẽ ảnh hưởng đến sự chú ý của chúng ta. Ít biển quảng cáo sẽ gia tăng hiệu quả của quảng cáo trong cửa hàng, sản phẩm quảng cáo xuất hiện trong chương trình yêu thích sẽ gia tăng sự chú ý và thích thú trong tâm trí khách hàng – gia tăng doanh thu.
IV. Hiểu/ diễn giải
Liên quan đến cách chúng ta lĩnh hội và đưa ra ý nghĩa cho thông tin được tiếp nhận dựa trên những đặc điểm cá nhân (kiến thức, tính cách, kỳ vọng cá nhân), tình huống, đặc tính kích thích (kích thước, định dạng, màu sắc).
Đây là một quá trình tương đối chứ không phải tuyệt đối, hiểu/diễn giải có xu hứng chủ quan và định kiến tâm lý (ví dụ công ty ra mắt một sản phẩm tốt hơn giá rẻ hơn đối thủ cạnh tranh, nhưng khách hàng có thể không nhìn nhận sản phẩm mang lại nhiều giá trị hơn, mà xem sản phẩm có chất lượng kém hơn dựa trên sự chủ quan giá cả bỏ qua thực tế khách quan). Hiểu/ diễn giải có thể xảy ra theo lý tính (phân loại thông tin tiếp nhận vào những danh mục ý nghĩa có sẵn) hoặc cảm tính (phản ứng theo tình cảm, cảm xúc) dao động từ tích cực (lạc quan, thú vị, ấm áp) trung hoà (vô tư) đến tiêu cực (giận dữ, sợ hãi, thất vọng).
Dưới đây tôi sẽ liệt kê một vài hiệu ứng được dùng trong marketing ảnh hưởng cách hiểu/ diễn giải của khách hàng:
- Hiệu ứng gần đề cập đến việc các kích thích (thông tin) ở gần nhau được coi là cùng loại hay có liên quan với nhau. Ví dụ một quảng cáo nói “Muốn an toàn khi lái xe, dùng mũ bảo hiểm A”. Ở đây việc lái xe an toàn không liên quan tới mũ bảo hiểm (phụ thuộc vào tay lái của người đó, tình trạng giao thông và các yếu tố ngẫu nhiên) nhưng khi 2 vế đứng gần nhau làm cho việc hiểu/diễn giải liên kết 2 vế liên quan tới nhau.
- Hiệu ứng chim mồi. Ví dụ cỡ nhỏ giá 30k, cỡ vừa giá 40k, cỡ lớn giá 45k, ở đây cỡ vừa là chìm mồi cho cỡ lớn làm cho khách hàng cảm thấy sẽ lợi hơn khi bỏ thêm 5k để có được cỡ lớn và gia tăng doanh thu.
- Hiệu ứng mỏ neo đề cập đến việc ra quyết định dựa vào thông tin có sẵn. Các chương trình giảm giá luôn để giá gốc sản phẩm cao để làm neo và giá đã giảm thấp giúp khách hàng nhận ra giá trị nhận được tăng thêm.
- Hiệu ứng nền, muốn truyền tải một thông điệp cốt lõi nhưng không đề cập trực tiếp tới nó mà thông qua những yếu tố xung quanh (nền) để thể hiện như hình minh hoạ dưới đây.
1. Động cơ và bản chất của nó
Động cơ là lí do giải thích cho hành vi. Động cơ và nhu cầu thường được dùng thay thế cho nhau khi một người cảm thấy sự khác nhau giữa trạng thái mong muốn với trạng thái thực tế hiện tại của họ, một nhu cầu (động cơ) được nhận ra sinh ra động lực để hành động. Động lực là lực thúc đẩy bên trong một người thực hiện hành vi và định hướng hành vi đó. Một người cảm thấy đói sẽ có động lực để thoả mãn nhu cầu đó. Một điều quan trọng cần phải nhớ là bất cứ hành vi tiêu dùng nào cũng đều đáp ứng nhiều hơn một nhu cầu.
2. Tháp nhu cầu Maslow
Dựa trên giả thuyết: một số nhu cầu quan trọng hơn các nhu cầu khác, những nhu cầu quan trọng phải được đáp ứng ở mức độ nhất định mới phát sinh nhu cầu kế tiếp.
- Sinh lý: Thức ăn, nước uống, nơi ở và trong một chừng mực nào đó quan hệ.
- An toàn: Tìm kiếm sự an toàn và sự bảo đảm thể chất, tài chính ổn định, môi trường quen thuộc an toàn. Một vài sản phẩm: thực phẩm chức năng, bảo hiểm, quỹ hưu trí, quần áo bảo hộ, sản phẩm chống nắng.
- Mối quan hệ và cảm giác thuộc về: mong muốn có tình yêu, tình bạn và gia nhập một nhóm. Một vài sản phẩm: dịch vụ giải trí và ăn uống, diện mạo cá nhân.
- Sự kính trọng: Mong muốn địa vị, sự vượt trội, lòng tự trọng, được người khác ngưỡng mộ. Một vài sản phẩm: quần áo, trang sức, ô tô, các thú vui sưu tập (đồ gỗ, tranh, cây cảnh, rượu)
- Tự thể hiện bản thân: nhận ra khả năng của bản thân và bao gồm mong muốn tự hoàn thiện bản thân và có thể làm được tất cả những gì một người có thể làm.
3. Học thuyết của McGuire
Chia nhu cầu con người làm nhiều loại.
- Nhu cầu nhất quán: mỗi người đều có một bản ngã mong muốn và luôn muốn hành động sao cho phù hợp với bản ngã đó. Họ sẽ không sẵn lòng chấp nhận những thông tin bất đồng với niềm tin và giá trị của bản thân.
- Nhu cầu quy kết: chúng ta luôn cố gắng tìm kiếm nguyên nhân cho những điều xảy ra với chúng ta hay xung quanh chúng ta dù là có lợi hay bất lợi.
- Nhu cầu phân hạng: chúng ta luôn phân loại, xếp hạng và sắp xếp thông tin vào những danh mục khác nhau trong tâm trí để khi cần sử dụng sẽ dễ lấy ra dùng. Đây là nhu cầu làm cho việc định vị thương hiệu sản phẩm cực kỳ quan trọng vì nếu thương hiệu của chúng ta không có thứ hạng cao trong một danh mục trong tâm trí khách hàng thì sẽ không được nhớ đến và ưu tiên mua.
- Nhu cầu tự thể hiện: muốn sự độc lập và tính cá nhân, muốn người khác biết mình là ai. Sở hữu hoặc sử dụng sản phẩm và dịch vụ được cá nhân hoá, thiết kế riêng thể hiện nhu cầu này.
- Nhu cầu kích thích, tìm kiếm niềm vui: tìm kiếm sự đa dạng, mới mẻ đem lại cảm giác kích thích.
- Nhu cầu kết quả mong muốn: ai cũng có vấn đề trong cuộc sống và luôn tìm cách để xử lý nó, có kỳ vọng và luôn muốn hành động đạt được kỳ vọng đó.
- Nhu cầu giảm bớt căng thẳng: cuộc sống luôn có nhiều áp lực và sự căng thẳng.
- Nhu cầu gia nhập: tham gia một nhóm là một phần quan trọng trong cuộc sống, nhiều quyết định được đưa ra dựa trên nhu cầu này như đã bàn trong nhóm tham khảo.
Vậy làm thế nào để biết động lực mua hàng?
Có 2 loại động lực thúc đẩy một người mua hàng đó là động lực hiển nhiên và động lực ẩn dấu (động lực ngầm).
Giả sử bạn phỏng vấn một người vào mua hàng ở một cửa hàng thời trang, bạn hỏi lý do tại sao họ chọn mua hàng ở đây có thể họ sẽ trả lời bạn những lý do như sau: “cửa hàng có nhiều mẫu mã quần áo đẹp; đúng phong cách ưa thích của tôi; một người bạn giới thiệu tôi”. Đó là những động lực hiển nhiên, còn những động lực ngầm: “mua sắm ở đây làm tôi cảm thấy mình là một người sành điệu và hợp thời trang; đây là nhãn hiệu cao cấp và tinh tế nó giúp tôi có địa vị và sự nổi tiếng” thì ít được mọi người biết tới rồi thừa nhận hay miễn cưỡng thừa nhận.
Sự kết hợp của 2 động lực trên sẽ quyết định rất nhiều tới hành vi tiêu dùng. Có thể xác định động lực hiển nhiên bằng phương pháp phỏng đoán bằng trực giác, nhưng để xác định động lực ngầm thì khó hơn nhiều đòi hỏi những phương pháp như:
Phỏng vấn chuyên sâu đào sâu lý do tại sao khách hàng quyết định lựa chọn sản phẩm/dịch vụ đó. Liên tục đặt câu hỏi lý do tại sao với người tiêu dùng, nhưng việc lặp lại câu hỏi tại sao liên tục làm người tiêu dùng khó chịu người phỏng vấn nên linh hoạt trong cách hỏi “Tại sao anh lại…; Lý do gì khiến anh…; Điều gì là quan trọng khiến anh lại…; Nếu không làm điều đó anh cảm thấy….”.
Kỹ thuật người thứ ba, theo đó khách hàng đưa ra lý do tại sao người khác có thể mua một nhãn hiệu nhất định.
Ai trong chúng ta cũng hoặc là né tránh nỗi đau hoặc là tìm kiếm niềm vui. Tương ứng với hai động lực ngăn ngừa và động lực khuyến khích. Khi động lực ngăn ngừa nổi bật hơn, khách hàng tìm cách tránh những hệ quả tiêu cực, suy nghĩ cụ thể hơn, ra quyết định dựa nhiều vào thông tin thực tế và thích đưa ra quyết định chính xác hơn là quyết định nhanh chóng. Khi động lực khuyến khích nổi bật hơn, khách hàng sẽ tìm kiếm để đạt được những kết quả tích cực, suy nghĩ trừu tượng hơn, đưa ra quyết định dựa nhiều vào ảnh hưởng và cảm xúc và thích đưa ra quyết định nhanh hơn là quyết định chính xác. Mỗi trọng tâm sẽ có những câu từ, chủ đề, hình ảnh phù hợp, trạng thái mong muốn, cảm giác mong muốn (vui vẻ và hưởng thụ hay an toàn và đảm bảo) khác nhau đem đếm những hệ quả marketing quan trọng.
4. Cá tính và tính cách
Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi khách hàng. Tính cánh là xu hướng phản ứng đặc trưng của một người trong các tính huống tương tự. Hai người khách hàng đều có nhu cầu giảm sự căng thẳng nhưng khác nhau ở mức độ hướng ngoại và do đó họ thực hiện các hành vi khác nhau để làm giảm sự căng thẳng.
Thuyết cá tính nghiên cứu tính cách như một khác biệt độc nhất của cá nhân và do đó cho phép người làm marketing phân khúc thị trường theo đặc điểm tính cách của khách hàng. Ví dụ: hãy tưởng tượng bạn được yêu cầu mô tả cá tính của một người bạn, bạn có thể nói rằng họ là một người năng nổ, tỉ mỉ, cạnh tranh và cũng dễ gần. Những gì mà bạn mô tả là xu hướng hành vi hoặc những nét tính cách mà người bạn đó đã thể hiện trong một thời gian dài qua các tình huống khác nhau.
Có 5 đặc điểm tính cách nổi trội và mỗi đặc điểm nằm trên một phổ rộng có nhiều mức độ.
- Sự cỡi mở (sẵn sàng trải nghiệm). Đối lập với cởi mỡ là bảo thủ.
- Sự tận tâm (cẩn thận, tỉ mỉ, chăm chỉ). Đối lập là cẩu thả.
- Sự hướng ngoại. Đối lập là hướng nội.
- Sự dễ chịu (tính khí ôn hoà) dễ thuận theo người khác.
- Sự nhạy cảm, người nhạy cảm quá để ý tới môi trường xung quanh, quá để ý tới cái nhìn của người khác, luôn lo lắng tưởng tượng những thứ không thể xảy ra.
Còn một khía cạnh khác của tính cách không thuộc 5 đặc điểm trên là sự hài hước.
Khi đã hiểu về các đặc điểm tính cách của khách hàng mục tiêu, chúng ta sẽ biết được họ quan tâm đến chủ đề gì, loại thông điệp nào sẽ thu hút được họ, từ ngữ nào sẽ thuyết phục được họ, sản phẩm nào họ sẽ ưu tiên lựa chọn. Đôi khi khách hàng mua hàng vì hình ảnh thương hiệu phù hợp với cá tính của họ. Cá tính thương hiệu góp phần không nhỏ trong việc xây dựng hình ảnh thương hiệu. Những cá tính thương hiệu:
- Đáng tin cậy: thông minh, chuyên nghiệp
- Sôi nổi: táo bạo, giàu trí tưởng tượng
- Tinh tế: cao cấp, quyến rũ.
- Chân thành: trung thực, bổ ích.
- Mạnh mẽ: cứng rắn, thô kệch.
Một thương hiệu chỉ nên có từ 1 đến 2 cá tính thương hiệu, không nên có quá nhiều cá tính vì như vậy khách hàng sẽ không cảm thấy sản phẩm này chỉ dành cho họ.
Thuongnguyen.org
Cảm ơn các bạn đã đọc hết bài viết này!
Các bạn cảm thấy bài viết này có giá trị không? Nếu các bạn đang gặp vấn đề với việc lập mô hình hành vi khách hàng hay đang cần bất kỳ sự hổ trợ nào từ Thương. Hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với Thương ngay nhé. Thương sẽ cố gắng hết sức trong khả năng của mình để hổ trợ bạn Hoàn Toàn Miễn Phí.
Hãy kết nối với Thương ngay để bắt đầu chặng đường phát triển thương hiệu – tăng trưởng kinh doanh.